Hộ kinh doanh là gì? Các công bố khoa học về Hộ kinh doanh
Hộ kinh doanh là một dạng hình thức kinh doanh nhỏ, có quy mô nhỏ hơn các doanh nghiệp lớn, thường do cá nhân hoặc một số cá nhân cùng quản lý. Hộ kinh doanh kh...
Hộ kinh doanh là một dạng hình thức kinh doanh nhỏ, có quy mô nhỏ hơn các doanh nghiệp lớn, thường do cá nhân hoặc một số cá nhân cùng quản lý. Hộ kinh doanh không có pháp nhân riêng biệt, không có sự phân chia rõ ràng giữa tài sản của chủ hộ và hộ kinh doanh. Những người tham gia hộ kinh doanh chịu trách nhiệm trực tiếp về vốn kinh doanh và các hoạt động kinh doanh của mình, trong đó chủ yếu là cá nhân, hộ gia đình hoặc hộ ông bà.
Hộ kinh doanh là một dạng hình thức kinh doanh thuộc quyền sở hữu của cá nhân, hộ gia đình hoặc hộ ông bà. Đây là một hình thức linh hoạt, dễ dàng thành lập và vận hành, không yêu cầu quy trình pháp lý phức tạp như doanh nghiệp.
Thành lập và hoạt động của hộ kinh doanh không yêu cầu đăng ký pháp lý như doanh nghiệp, nhưng phải tuân thủ các quy định về đăng ký kinh doanh, thuế và các quy tắc của pháp luật. Việc đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh thông thường chỉ yêu cầu các thủ tục đơn giản, như việc đăng ký một số loại giấy tờ mang tính hợp pháp như chứng chỉ đăng ký kinh doanh, giấy phép kinh doanh hoặc giấy tờ tương tự tại các cơ quan quản lý nhà nước cấp phép.
Trong hộ kinh doanh, người chủ chịu trách nhiệm tuyệt đối về các hoạt động kinh doanh và nợ nần của hộ. Vốn kinh doanh thường là tài sản cá nhân của chủ hộ và không có sự phân chia rõ ràng giữa tài sản cá nhân và tài sản của hộ kinh doanh. Người chủ hộ phải chịu mọi rủi ro và thiệt hại liên quan đến hoạt động kinh doanh của mình.
Hộ kinh doanh thường có quy mô nhỏ, tập trung vào các ngành nghề nhỏ và vừa, như buôn bán, dịch vụ, sản xuất nhẹ. Thường thì hộ kinh doanh không có khả năng mở rộng và phát triển lớn. Ngoài ra, hộ kinh doanh cũng không có quyền giao dịch chứng khoán, vay vốn từ ngân hàng và không được thụ động hóa (chuyển giao quyền quản lý cho người khác) hoặc thực hiện cổ phần hóa.
Mặc dù hộ kinh doanh có nhiều ưu điểm như linh hoạt, dễ thành lập, chi phí thấp, nhưng cũng có nhược điểm như phiên quyết định của chủ hộ, hạn chế trong việc thu hút vốn đầu tư và sự tương đối nhanh chóng trong việc giới hạn phạm vi hoạt động khi kinh doanh phát triển.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "hộ kinh doanh":
Các học giả và thực hành marketing đã quan sát hơn ba thập kỷ rằng hiệu suất kinh doanh bị ảnh hưởng bởi định hướng thị trường, tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một thước đo hợp lệ cho định hướng thị trường và do đó chưa có phân tích hệ thống về tác động của nó đến hiệu suất của doanh nghiệp. Các tác giả báo cáo sự phát triển của một thước đo hợp lệ cho định hướng thị trường và phân tích tác động của nó đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Sử dụng mẫu 140 đơn vị kinh doanh bao gồm các doanh nghiệp sản phẩm hàng hóa và doanh nghiệp phi hàng hóa, họ phát hiện ra tác động tích cực đáng kể của một định hướng thị trường lên lợi nhuận của cả hai loại doanh nghiệp này.
Trong bài tổng quan này, chủ đề chính là ‘trường hợp kinh doanh’ cho trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR). Trường hợp kinh doanh ám chỉ các lập luận hoặc lý do cơ bản hỗ trợ hoặc chứng minh tại sao cộng đồng doanh nghiệp nên chấp nhận và thúc đẩy ‘lý tưởng’ CSR. Trường hợp kinh doanh chú trọng vào câu hỏi chính: Cộng đồng và tổ chức doanh nghiệp được lợi gì từ CSR? Cụ thể, họ được hưởng lợi như thế nào từ việc tham gia vào các chính sách, hoạt động và thực tiễn CSR? Trường hợp kinh doanh đề cập đến lý do tài chính và các lý do khác để các doanh nghiệp theo đuổi các chiến lược và chính sách CSR. Trong việc phát triển các lập luận này, bài viết trước tiên cung cấp một số bối cảnh và quan điểm lịch sử. Ngoài ra, bài viết cũng đưa ra một cuộc thảo luận ngắn gọn về sự phát triển của những hiểu biết về CSR và một số lập luận truyền thống đã được đưa ra cả cho và chống lại ý tưởng doanh nghiệp đảm nhận bất kỳ trách nhiệm nào đối với xã hội vượt ra ngoài việc tìm kiếm lợi nhuận và tối đa hóa sự thịnh vượng tài chính của chính mình. Cuối cùng, bài viết sẽ phân tích chi tiết hơn về trường hợp kinh doanh. Mục tiêu là mô tả và tóm tắt ý nghĩa của trường hợp kinh doanh và xem xét một số khái niệm, nghiên cứu và thực tiễn đã trở thành đặc trưng cho ý tưởng đang phát triển này.
Cách tiếp cận dựa trên nguồn lực đối với quản lý chiến lược tập trung vào các thuộc tính của công ty khó sao chép như các nguồn lợi kinh tế và, do đó, là các yếu tố thúc đẩy hiệu suất và lợi thế cạnh tranh cơ bản. Hiện nay, có sự quan tâm đến việc liệu sự thừa nhận rõ ràng quan điểm dựa trên nguồn lực có thể hình thành hạt nhân của một mô hình hợp nhất cho nghiên cứu chiến lược hay không. Bài viết này đề cập đến mức độ mà quan điểm dựa trên nguồn lực đại diện cho một phương pháp khác biệt cơ bản so với các lý thuyết được sử dụng trong kinh tế tổ chức công nghiệp. Luận điểm trung tâm là, xét về mặt không chính thức, cách tiếp cận dựa trên nguồn lực đang tìm kiếm một lý thuyết về công ty. Để xác định sự khác biệt so với ngành tổ chức công nghiệp, do đó, một phép so sánh thích hợp là với các lý thuyết khác về công ty được phát triển trong truyền thống đó. Phần I tóm tắt và phân tích năm lý thuyết đã có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển lịch sử của ngành tổ chức công nghiệp. Đó là mô hình cạnh tranh hoàn hảo của lý thuyết tân cổ điển, mô hình IO theo kiểu Bain, các đáp ứng của Schumpeter và Chicago, và lý thuyết chi phí giao dịch. Phần đầu tiên của Phần II phân tích cách tiếp cận dựa trên nguồn lực về mặt tương đồng và khác biệt so với các lý thuyết liên quan đến IO này. Kết luận là lý thuyết dựa trên nguồn lực vừa tích hợp vừa bác bỏ ít nhất một yếu tố chính từ mỗi lý thuyết đó; do đó lý thuyết dựa trên nguồn lực phản ánh di sản IO mạnh mẽ, nhưng đồng thời bao gồm sự khác biệt cơ bản đối với bất kỳ lý thuyết nào trong số này. Phần thứ hai của Phần II phân tích lý thuyết dựa trên nguồn lực như là một lý thuyết mới về công ty.
Bằng cách tham gia vào các hoạt động trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR), các công ty không chỉ có thể tạo ra thái độ tích cực từ các bên liên quan và các hành vi hỗ trợ tốt hơn (ví dụ: mua hàng, tìm kiếm việc làm, đầu tư vào công ty), mà còn, trong dài hạn, xây dựng hình ảnh công ty, củng cố mối quan hệ giữa các bên liên quan và công ty, và nâng cao các hành vi ủng hộ của các bên liên quan. Tuy nhiên, nhận thức thấp của các bên liên quan về và sự quy kết không thuận lợi đối với các hoạt động CSR của các công ty vẫn là những trở ngại quan trọng trong nỗ lực của các công ty nhằm tối đa hóa lợi ích kinh doanh từ các hoạt động CSR, nhấn mạnh nhu cầu các công ty phải giao tiếp CSR một cách hiệu quả hơn tới các bên liên quan. Đối mặt với những thách thức này, một khuôn khổ khái niệm về giao tiếp CSR được trình bày và các khía cạnh khác nhau của nó được phân tích, từ nội dung thông điệp và kênh giao tiếp đến các yếu tố riêng biệt của công ty và bên liên quan ảnh hưởng đến hiệu quả của giao tiếp CSR.
Sự nhận thức của cá nhân về các vấn đề đạo đức là bước đầu tiên quan trọng trong quá trình ra quyết định đạo đức. Dựa vào nghiên cứu trong lĩnh vực nhận thức xã hội và đạo đức kinh doanh, chúng tôi đã giả thuyết rằng sự nhận thức đạo đức bị ảnh hưởng bởi các yếu tố liên quan đến vấn đề (mức độ hậu quả của vấn đề đạo đức và cách trình bày vấn đề theo cách đạo đức) và các yếu tố liên quan đến bối cảnh xã hội (bối cảnh cạnh tranh và sự đồng thuận xã hội mà trong đó vấn đề bị coi là có vấn đề về đạo đức). Các giả thuyết đã được kiểm tra trong một thí nghiệm thực địa với sự tham gia của 291 chuyên gia về tình báo cạnh tranh. Kết quả chủ yếu đã hỗ trợ các giả thuyết. Phân tích định tính đã cung cấp thêm cái nhìn về nội dung nhận thức đạo đức của những người tham gia.
Chúng tôi nghiên cứu hiện tượng hệ sinh thái kinh doanh, trong đó các công ty nền tảng điều phối hoạt động của hệ sinh thái bằng cách cung cấp các nền tảng và thiết lập quy tắc tham gia cho các công ty bổ sung. Chúng tôi phát triển một khuôn khổ lý thuyết để giải thích cách mà các đặc điểm cấu trúc và tiến hóa của hệ sinh thái có thể hình thành khả năng duy trì hiệu suất vượt trội của các công ty bổ sung tham gia. Đặc điểm cấu trúc mà chúng tôi gọi là độ phức tạp của hệ sinh thái là một hàm số của số lượng các thành phần hoặc tập hợp con độc nhất tương tác với sản phẩm của các công ty bổ sung. Chúng tôi kết hợp các đặc điểm tiến hóa bằng cách xem xét vai trò của các chuyển giao thế hệ do các công ty nền tảng khởi xướng theo thời gian cũng như vai trò của kinh nghiệm cụ thể của các công ty bổ sung trong hệ sinh thái. Bằng chứng từ hệ sinh thái smartphone iOS của Apple và Android của Google hỗ trợ các lập luận của chúng tôi rằng độ phức tạp của hệ sinh thái càng cao thì các nhà phát triển ứng dụng càng có khả năng duy trì hiệu suất vượt trội của họ, và rằng hiệu ứng này mạnh hơn đối với các công ty có kinh nghiệm hơn. Ngược lại, các chuyển đổi nền tảng do Apple và Google khởi xướng làm cho các nhà phát triển ứng dụng khó duy trì sự ưu việt trong hiệu suất của họ, và hiệu ứng này càng trở nên nghiêm trọng hơn do mức độ phức tạp của hệ sinh thái. Nghiên cứu đưa ra một tài liệu mới về cách mà hiệu suất của các công ty bổ sung trong các hệ sinh thái kinh doanh dựa trên nền tảng có thể bị hình thành bởi các sự phụ thuộc lẫn nhau ở cấp độ hệ sinh thái.
Nghiên cứu này nhằm đánh giá một cách có hệ thống các tác động của COVID-19 và tương lai sau COVID-19 đối với thiết kế, địa điểm và chức năng của văn phòng theo các kỳ vọng về sức khỏe và an toàn nghề nghiệp của chính phủ và cộng đồng. Nghiên cứu nhằm đánh giá cách mà hiệu quả văn phòng và các mục tiêu kiểm soát chi phí giao thoa với trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Nghệ thuật lý thuyết được thông tin bởi chính phủ và trách nhiệm xã hội thông qua hành động, nghiên cứu này theo chủ đề xem xét tài liệu nghiên cứu và các báo cáo chuyên môn và kinh doanh trên Web. Nó thực hiện một phân tích kịp thời về các xu hướng văn phòng lịch sử và các diễn ngôn thực hành mới nổi trong giai đoạn đầu của đại dịch COVID-19 toàn cầu.
COVID-19 đã thúc đẩy việc chuyển đổi sang làm việc từ xa, thay đổi thiết kế và cấu hình văn phòng, cũng như tái cấu trúc quy trình làm việc của văn phòng. Các chiến lược quản lý phản ánh các lựa chọn ưu tiên giữa sức khỏe và an toàn nghề nghiệp so với lợi nhuận tài chính. Ngoài các báo cáo trách nhiệm chính thức, chiến lược quản lý văn phòng và lý do sẽ trở nên có thể quan sát và chịu trách nhiệm trước nhân viên văn phòng và các bên liên quan khác.
Nghiên cứu trong tương lai cần xác định sự cân bằng giữa các chiến lược thay đổi văn phòng đã được sử dụng và sự tập trung rõ ràng của chúng vào sức khỏe và an toàn nghề nghiệp hoặc kiểm soát chi phí và lợi nhuận tài chính. Nghiên cứu sâu hơn có thể tiết lộ mối quan hệ giữa báo cáo chính thức và các hoạt động quan sát được.
Các tổ chức phải đối mặt với các quyết định chiến lược liên quan đến sự cân bằng giữa sức khỏe và an toàn của nhân viên cũng như công chúng trước những cam kết chi tiêu vốn và chi phí vận hành để ngăn chặn sự lây lan của COVID-19. Họ cũng phải đưa ra các quyết định về trách nhiệm chiến lược liên quan đến sự rõ ràng và sự phù hợp giữa các hành động quan sát được và báo cáo trách nhiệm xã hội chính thức của họ.
Các tổ chức đã tiếp tục thực hiện các chiến lược quản lý chi phí văn phòng dưới vỏ bọc của những thiết kế văn phòng sáng tạo. Xu hướng lịch sử này sẽ bị kiểm tra bởi một đại dịch, điều này yêu cầu kiểm soát sự lây lan của nó, bao gồm những thay đổi mạnh mẽ đến văn phòng với chi phí có thể đáng kể.
Bài báo này trình bày một trong số ít các nghiên cứu về văn phòng trong tài liệu nghiên cứu kế toán, công nhận nó là trung tâm cho hoạt động tổ chức hiện đại và tiết lộ truyền thống kiểm soát chi phí văn phòng như một thách thức cho sức khỏe và an toàn của nhân viên cộng đồng.
Bài viết này xem xét các nghiên cứu liên văn hóa về sự thích ứng, cụ thể là sự tiếp nhận văn hóa và đồng hóa, trong bối cảnh tài liệu về văn hóa tổ chức và phát triển một mô hình khái niệm về tình trạng hiện tại của phụ nữ trong các tổ chức. Một quan điểm văn hóa vượt ra ngoài các lý thuyết tập trung vào con người và tình huống giúp giải thích khoảng cách giới trong quản lý. Quan điểm văn hóa cho thấy rằng phụ nữ, giống như những người thiểu số khác, có thể tiếp nhận văn hóa của tổ chức mà không nhất thiết phải đồng hóa vào nó. Bài viết này đề xuất một phân loại các mô hình thích ứng khác nhau cho phụ nữ trong các tổ chức kinh doanh và gợi ý một số lựa chọn để thay đổi chính văn hóa của tổ chức nhằm giảm thiểu các tác động do sự khác biệt này.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10