Scholar Hub/Chủ đề/#hộ kinh doanh/
Hộ kinh doanh là một dạng hình thức kinh doanh nhỏ, có quy mô nhỏ hơn các doanh nghiệp lớn, thường do cá nhân hoặc một số cá nhân cùng quản lý. Hộ kinh doanh kh...
Hộ kinh doanh là một dạng hình thức kinh doanh nhỏ, có quy mô nhỏ hơn các doanh nghiệp lớn, thường do cá nhân hoặc một số cá nhân cùng quản lý. Hộ kinh doanh không có pháp nhân riêng biệt, không có sự phân chia rõ ràng giữa tài sản của chủ hộ và hộ kinh doanh. Những người tham gia hộ kinh doanh chịu trách nhiệm trực tiếp về vốn kinh doanh và các hoạt động kinh doanh của mình, trong đó chủ yếu là cá nhân, hộ gia đình hoặc hộ ông bà.
Hộ kinh doanh là một dạng hình thức kinh doanh thuộc quyền sở hữu của cá nhân, hộ gia đình hoặc hộ ông bà. Đây là một hình thức linh hoạt, dễ dàng thành lập và vận hành, không yêu cầu quy trình pháp lý phức tạp như doanh nghiệp.
Thành lập và hoạt động của hộ kinh doanh không yêu cầu đăng ký pháp lý như doanh nghiệp, nhưng phải tuân thủ các quy định về đăng ký kinh doanh, thuế và các quy tắc của pháp luật. Việc đăng ký kinh doanh của hộ kinh doanh thông thường chỉ yêu cầu các thủ tục đơn giản, như việc đăng ký một số loại giấy tờ mang tính hợp pháp như chứng chỉ đăng ký kinh doanh, giấy phép kinh doanh hoặc giấy tờ tương tự tại các cơ quan quản lý nhà nước cấp phép.
Trong hộ kinh doanh, người chủ chịu trách nhiệm tuyệt đối về các hoạt động kinh doanh và nợ nần của hộ. Vốn kinh doanh thường là tài sản cá nhân của chủ hộ và không có sự phân chia rõ ràng giữa tài sản cá nhân và tài sản của hộ kinh doanh. Người chủ hộ phải chịu mọi rủi ro và thiệt hại liên quan đến hoạt động kinh doanh của mình.
Hộ kinh doanh thường có quy mô nhỏ, tập trung vào các ngành nghề nhỏ và vừa, như buôn bán, dịch vụ, sản xuất nhẹ. Thường thì hộ kinh doanh không có khả năng mở rộng và phát triển lớn. Ngoài ra, hộ kinh doanh cũng không có quyền giao dịch chứng khoán, vay vốn từ ngân hàng và không được thụ động hóa (chuyển giao quyền quản lý cho người khác) hoặc thực hiện cổ phần hóa.
Mặc dù hộ kinh doanh có nhiều ưu điểm như linh hoạt, dễ thành lập, chi phí thấp, nhưng cũng có nhược điểm như phiên quyết định của chủ hộ, hạn chế trong việc thu hút vốn đầu tư và sự tương đối nhanh chóng trong việc giới hạn phạm vi hoạt động khi kinh doanh phát triển.
Trách nhiệm xã hội trong kinh doanh khách sạn tại Việt Nam Nghiên cứu trường hợp tại các khách sạn Sofitel Legend Metropole và Sofitel Plaza Hà Nội Tóm tắt: Để đảm bảo phát triển bền vững cho doanh nghiệp và cho xã hội, ngày nay người ta đề cập ngày càng nhiều hơn đến trách nhiệm xã hội (TNXH) của doanh nghiệp. Cho đến nay, mặc dù Việt Nam tham gia ngày càng mạnh mẽ vào quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, song vấn đề TNXH vẫn chưa được quan tâm đúng mức dưới cả góc độ lý luận và thực tiễn tại Việt Nam. Các khách sạn tại Việt Nam hiện nay, đặc biệt là các khách sạn 5 sao, đã thực hiện các hoạt động TNXH và thu được những thành công, song cũng tồn tại không ít những hạn chếTrên cơ sở khảo sát thực trạng thực hiện TNXH của 2 khách sạn 5 sao tại Hà Nội, bài báo đưa ra một vài nhận định về vấn đề thực hiện TNXH trong kinh doanh khách sạn; đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao việc thực hiện TNXH trong kinh doanh khách sạn tại Việt Nam.Từ khóa: Trách nhiệm xã hội, kinh doanh khách sạn, trách nhiệm xã hội trong kinh doanh khách sạn.
Hoạt động tổ chức của khách sạn cao cấp từ góc nhìn văn hóa Hoạt động tổ chức của khách sạn cao cấp là dạng hoạt động có tính liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận trong sơ đồ tổ chức. Trong sự liên kết đó, mỗi bộ phận đều có chức năng và quyền hạn riêng của mình, họ được quyền quyết định và quản lý hoạt động tổ chức của bộ phận một cách hiệu quả nhất. Tính phân quyền và tính liên kết là hai đặc tính cơ bản trong văn hóa kinh doanh khách sạn. Trong sơ đồ tổ chức hoạt động của khách sạn, yếu tố con người nổi bật lên như một chủ thể và đối tượng quan trọng của mọi hoạt động kinh doanh. Ngày nhận19/9/2017; ngày chỉnh sửa 28/12/2017; ngày chấp nhận đăng 28/2/2018
#khách sạn #văn hóa kinh doanh #văn hóa khách sạn #văn hóa tổ chức #hoạt động tổ chức.
Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), từ đó đề xuất các hàm ý chính sách nhằm thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên. Mô hình nghiên cứu đề xuất kế thừa mô hình nghiên cứu của Ambad và Damit (2016). Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 430 sinh viên năm cuối, khối ngành kinh tế của 10 trường Đại học tại TP.HCM có tỷ lệ sinh viên khởi nghiệp cao sau khi tốt nghiệp và được kiểm định bằng phân tích hồi quy tuyến tính bội. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế các trường Đại học tại TP.HCM (được sắp xếp theo trình tự mức độ quan trọng từ cao xuống thấp) bao gồm: Giáo dục kinh doanh (GDKD); Chuẩn chủ quan (CCQA); Môi trường khởi nghiệp (MTKN); Đặc điểm tính cách (DDTC) và Nhận thức tính khả thi (NTKT
#Ý định khởi nghiệp kinh doanh #sinh viên khối ngành kinh tế #môi trường khởi nghiệp
Vốn xã hội và hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trường hợp các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam Bài viết sử dụng bộ dữ liệu của cuộc điều tra doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) giai đoạn từ 2013 đến năm 2015 của Viện Quản lý kinh tế trung ương (CIEM) để tìm hiểu ảnh hưởng của vốn xã hội đến hiệu quả hoạt động của 5.060 DNNVV ở Việt Nam. Kết quả hồi quy logit cho thấy quy mô của doanh nghiệp và mức độ liên kết kinh tế thường xuyên của doanh nghiệp với các doanh nghiệp trong ngành và khác ngành có tác động lớn đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sự liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp càng cao lại làm giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành nghề kinh doanh. Đồng thời, quy mô doanh nghiệp càng lớn dẫn đến hiệu quả kinh doanh càng giảm. Từ đó, tác giả đề xuất một số gợi ý nhằm hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNVV.
#Doanh nghiệp nhỏ và vừa #hiệu quả hoạt động kinh doanh #quy mô doanh nghiệp #vốn xã hội
KIẾN THỨC, THỰC HÀNH AN TOÀN THỰC PHẨM CỦA NGƯỜI CHẾ BIẾN VÀ KINH DOANH THỰC PHẨM TẠI THÀNH PHỐ BẮC NINH Mục tiêu: Mô tả kiến thức, thực hành an toàn thực phẩm (ATTP) của người chế biến và kinh doanh thực phẩm tại thành phố Bắc Ninh năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp mô tả thiết kế cắt ngang trên 350 người chế biến, kinh doanh thực phẩm tại thành phố Bắc Ninh. Kết quả nghiên cứu: Chỉ có 47,1 đến 60,6% đối tượng nghiên cứu trả lời đúng tác dụng của việc bày thức ăn trong tủ kính; khoảng 76,7% trả lời cần đeo khẩu trang khi chế biến thực phẩm. Tỷ lệ khám sức khỏe định kỳ đạt 85,7%. Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có kiến thức chung đạt: 86,3%; thực hành chung đạt: 74,3%. Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có kiến thức và thực hành không tốt chiếm 13,7% và 25,7%. Khuyến nghị: Tăng cường truyền thông giáo dục nhằm nâng cao kiến thức, thực hành về an toàn thực phẩm của người chế biến, kinh doanh thực phẩm.
#Kiến thức #Thực hành #Chế biến thực phẩm #Kinh doanh thực phẩm #Thành phố Bắc Ninh
TÁC ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP FINTECH ĐẾN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI VIỆT NAM Trong một số năm gần đây đang có một cuộc tranh luận khá sôi nổi ở khu vực tài chính của Việt Nam về vai trò và vị trí của các doanh nghiệp (DN) Fintech đối với sự đổi mới và phát triển của các định chế tài chính và hầu hết các ý kiến đều khẳng định rằng sự hoạt động của các Fintech sẽ giúp thúc đẩy sự đổi mới công nghệ trong lĩnh vực tài chính và đem đến nhiều lợi ích cho người tiêu dùng cũng như giúp thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam. Nhưng câu hỏi đặt ra lúc này là sự hoạt động của các DN Fintech tác động như thế nào đối với hoat động kinh doanh ngân hàng (NH)? Làm thế nào để có thể phát huy các tác động tích cực của hoạt động Fintech nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) nói riêng và sự phát triển của thị trường tài chính nói chung? Đây đã và đang tiếp tục là yêu cầu thực tiễn cần có lời giải đáp thỏa đáng. Bài viết này sẽ tập trung đề cập sự ra đời và hoạt động của Fintech và các tác động có thể xảy ra đối với hoạt động NH, từ đó gợi mở một số vấn đề đối với Việt Nam.
#Ngân hàng thương mại #doanh nghiệp Fintech #hoạt động kinh doanh NH #thị trường tài chính
CHUYỂN ĐỔI SỐ - LỢI ÍCH CỦA DOANH NGHIỆP DƯỚI GÓC NHÌN KHOA HỌC QUẢN LÝ KINH TẾ Tóm tắt: Dưới góc nhìn của Khoa học quản lý kinh tế, khi thực hiện chuyển đổi số, doanh nghiệp Việt Nam gặp những thách thưc gì? Phải làm như thế nào để doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số thành công?
Bài viết giới hạn nêu khái quát lý thuyết về chuyển số, bao gồm các nội dung: số hóa, chuyển đổi số và cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong mối liên hệ logic, biện chứng. Đồng thời nghiên cứu quan điểm của Đảng Công sản Việt Nam về phát triển kinh tế số và chuyển đổi số ở Việt Nam. Nội dung bài viết tâp trung chủ yếu về những thách thức của doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số và các thành tố quyết định đến quá trình và sự thành công của chuyển đối số của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, bao gồm: Thách thức từ nguồn nhân lực; Thách thức từ công nghệ; Thách thức từ nguồn lực tài chính; Thách thức từ tư duy, nhận thức của doanh nghiệp; Một số giải pháp và bước đi thực hiên chuyển đối số của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiêp vừa và nhỏ, khởi nghiệp Việt Nam.
#Số hóa #Chuyển đổi số #Kinh tế số #Công nghiệp 4.0 #doanh nghiệp vừa và nhỏ #quản lý kinh tế
Chuyển đổi số và những ảnh hưởng lên ý định khởi nghiệp Dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp dự báo những khó khăn cho không chỉ kinh tế Việt Nam mà còn cả nền kinh tế toàn cầu. Trong bối cảnh đó, khởi nghiệp được kỳ vọng như một giải pháp có thể giúp các nền kinh tế đang gặp khó khăn sau khủng hoảng nhanh chóng phục hồi. Dựa trên nghiên cứu của Liñán và Chen (2009) có xem xét khía cạnh chuyển đổi số, nghiên cứu này đề xuất một mô hình liên kết ý định tự kinh doanh sinh viên của đến quá trình chuyển đổi số-quá trình đi kèm với những cơ hội tạo ra các mô hình kinh doanh mới [1]. Kết quả cho thấy Thái độ cá nhân (PA) và Nhận thức kiểm soát hành vi (PBC) là những yếu tố chính quyết định Ý định khởi nghiệp. Ngoài ra mô hình SEM cũng chỉ ra Hỗ trợ từ giáo dục, Hỗ trợ từ mối quan hệ và yếu tố mới xuất hiện trong nghiên cứu là Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) có ảnh hưởng lên Ý định khởi nghiệp thông qua hai yếu tố trung gian là PA và PBC.
#Khởi nghiệp #ý định tự kinh doanh #số hóa #chuyển đổi số #công nghệ thông tin và truyền thông
NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ THUẾ ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH – NGHIÊN CỨU TẠI THÀNH PHỐ KON TUM, TỈNH KON TUM Khu vực hộ kinh doanh có vai trò quan trọng trong tạo việc làm, thu nhập và đóng góp cho ngân sách. Song đây là nguồn thu phức tạp, số lượng hộ kinh doanh rất lớn và không ngừng tăng lên, tình trạng thất thu, nợ đọng thuế phổ biến, nhân lực và chi phí quản lý thuế khá lớn. Bài báo tập trung nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh trên địa bàn thành phố Kon Tum nhằm thực hiện thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các khoản thuế, phí, lệ phí vào ngân sách nhà nước tạo điều kiện để ngành thuế tập trung nguồn lực cho các nguồn thu lớn, đảm bảo hoàn thành công tác thuế và góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội tại địa phương.
#thuế #quản lý thuế #hộ kinh doanh #chi cục thuế #tỉnh Kon Tum
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA ĐA DẠNG HÓA THU NHẬP ĐẾN HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM Các dịch vụ tài chính mà ngân hàng thương mại (NHTM) cung cấp cho khách hàng (KH) cũng là những dịch vụ tạo ra thu nhập cho các NHTM và vì vậy, xét về nguyên lý thì để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, các NHTM phải tăng cường cung cấp các dịch vụ tài chính cho KH, qua đó sẽ giúp tăng thu nhập cho ngân hàng. Tuy vậy, việc tăng cường mở rộng dịch vụ tài chính cung cấp cho KH nhằm tăng thu nhập không hoàn toàn đồng nghĩa với việc sẽ giúp các NHTM nâng cao được hiệu quả kinh doanh, thậm chí nó còn làm suy giảm hiệu quả, điều này đã được một số nghiên cứu quốc tế chỉ ra. Đối với Việt Nam, những năm qua việc mở rộng dịch vụ tài chính được các NHTM quan tâm chú ý và đạt được những kết quả rất tích cực, qua đó không chỉ giúp các NHTM tăng nhanh thu nhập và đáp ứng ngày càng tốt hơn những nhu cầu của KH trong nền kinh tế. Tuy vậy, nếu xét từ góc độ hiệu quả thì chưa đáp ứng được kỳ vọng, thể hiện qua các hệ số ROA hay ROE còn ở mức tương đối thấp so với các NHTM các nước.
Bài viết này sẽ tập trung đánh giá các tác động của việc đa dạng hóa thu nhập đến hiệu quả kinh doanh của các NHTM Việt Nam.
#Thu nhập của NHTM #Hiệu quả kinh doanh của NHTM #Tác động của đa dạng hóa thu nhập đến hiệu quả kinh doanh của NHTM